Kháng cáo phiên tòa năm 1949 Đạo luật Smith xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản

Các bị cáo xét xử năm 1949 đã kháng cáo lên Tòa Phúc thẩm Khu vực 2 vào năm 1950.[99] Trong đơn kháng cáo, họ nêu ra một số vấn đề với việc sử dụng nhân chứng cung cấp thông tin, sự công bằng của bồi thẩm đoàn và thẩm phán, hành vi của thẩm phán và quyền tự do ngôn luận.[99] Các lập luận về quyền tự do ngôn luận đưa ra các vấn đề hiến pháp quan trọng: họ khẳng định rằng vận động chính trị được Tu chính án thứ nhất bảo vệ, bởi vì CPUSA không ủng hộ bạo lực, mà thay vào đó chỉ quảng bá cách mạng như một khái niệm trừu tượng.

Tự do ngôn luận

Một trong những vấn đề chính được nêu ra khi kháng cáo là việc vận động chính trị của các bị cáo đã được Tu chính án thứ nhất bảo vệ, bởi vì CPUSA không ủng hộ bạo lực, mà thay vào đó chỉ quảng bá cách mạng như một khái niệm trừu tượng.[55]

Vào đầu thế kỷ 20, ở Hoa Kỳ, phép thử pháp lý chĩnh được sử dụng để xác định một phát ngôn có bị hình sự hóa hay không là phép thử khuynh hướng xấu.[100] Bắt nguồn từ thông luật của Anh, bài kiểm tra cấm một phát ngôn nếu có xu hướng gây tổn hại đến lợi ích công cộng.[100] Một trong những trường hợp đầu tiên Tối cao Pháp viện giải quyết hình phạt sau khi tài liệu được công bố là Patterson v. Colorado (1907), trong đó tòa sử dụng phép thử khuynh hướng xấu giữ nguyên các cáo buộc khinh thường với một nhà xuất bản tố các thẩm phán Colorado giúp đỡ các công ty dịch vụ công cộng địa phương.[100][101]

Các cuộc biểu tình chống chiến tranh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm phát sinh một số trường hợp tự do ngôn luận liên quan đến dụ dỗ và kích động bạo lực. Trong vụ án Schenck v. United States năm 1919, Tối cao Pháp viện cho rằng một nhà hoạt động chống chiến tranh không có quyền lên tiếng phản đối dự thảo theo Tu chính án thứ nhất.[102][103] Theo ý kiến đa số của mình, Justice Holmes đã đưa ra phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, một thứ trở thành một khái niệm quan trọng trong luật Tu chính án thứ nhất; nhưng vụ Schenck đã không chính thức áp dụng phép thử này.[102] Holmes sau đó đã viết rằng ông dự định phép thử này sẽ hoàn thiện, chứ không phải thay thế, phép thử khuynh hướng xấu.[71][104] Mặc dù đôi khi được đề cập đến trong các phán quyết tiếp theo, phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu chưa bao giờ được Tối cao Pháp viện xác nhận như một phép thử được sử dụng bởi các tòa án cấp dưới khi đánh giá tính hợp hiến.[105][106]

Tòa án tiếp tục sử dụng phép thử khuynh hướng xấu trong suốt đầu thế kỷ 20 trong các vụ như Abrams v. United States (1919), kết tội những nhà hoạt động phản chiến phát tờ rơi khuyến khích công nhân cản trở nỗ lực chiến tranh.[107] Trong vụ Abrams, Holmes và Justice Brandeis đã xảy ra bất đồng và khuyến khích việc sử dụng phép thử rõ ràng và hiện hữu, vốn bảo vệ phát ngôn nhiều hơn.[108] Trong vụ Gitlow v. New York (1925), tòa đã mở rộng Tu chính án thứ nhất cho các bang, và giữ nguyên kết tội Gitlow vì xuất bản "Tuyên ngôn Cánh tả".[109] Vụ Gitlow được quyết định dựa trên phép thử khuynh hướng xấu, nhưng quyết định đa số thừa nhận tính hợp lệ của phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, thế nhưng kết luận rằng việc sử dụng chỉ giới hạn trong các tình huống giống như vụ Schenck mà không bị cấm cụ thể bởi luật.[71][110] Brandeis và Holmes một lần nữa thúc đẩy phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, lần này là theo ý kiến đồng tình trong vụ Whitney v. California năm 1927.[71][111] Đa số không áp dụng hoặc sử dụng thử nghiệm nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, nhưng ý kiến đồng tình khuyến khích Tòa án ủng hộ các biện pháp bảo vệ nhiều hơn cho lời nói và cho rằng "nguy hiểm trước mắt" – hạn chế hơn là "nguy hiểm hiện hữu" – nên được yêu cầu trước khi phát ngôn có thể bị cấm.[112] Sau Whitney, phép thử khuynh hướng xấu tiếp tục được Tòa án sử dụng trong các trường hợp như Stromberg v. California (1931), cho rằng đạo luật của California năm 1919 cấm cờ đỏ là vi hiến.[113]

Phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu đã được đa số viện dẫn trong Thornhill v. Alabama (1940), theo đó luật chống biểu tình của bang đã bị vô hiệu.[105][114] Mặc dù Tòa án đã đề cập đến phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu trong một số quyết định sau Thornhill,[115] phép thử khuynh hướng xấu không bị bác bỏ một cách rõ ràng,[105] và phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu không được áp dụng trong một số vụ tự do ngôn luận tiếp theo liên quan đến kích động bạo lực.[116]

Kháng cáo lên Tòa Phúc thẩm Liên bang

Vào tháng 5 năm 1950, 1 tháng trước khi Tòa Phúc thẩm nghe tranh luận bằng miệng trong vụ CPUSA, Tối cao Pháp viện đã ra phán quyết về các vấn đề tự do ngôn luận trong vụ American Communications Association v. Douds. Trong vụ này, Tòa đã xem xét phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, nhưng bác bỏ vì quá máy móc và thay vào đó đưa ra phép thử cân bằng.[117] Tòa Phúc thẩm Liên bang nghe tranh luận bằng miệng trong vụ CPUSA từ ngày 21 đến 23 tháng 6 năm 1950. 2 ngày sau, vào ngày 25 tháng 6, Hàn Quốc bị tấn công bởi các lực lượng cộng sản Triều Tiên, đánh dấu sự bắt đầu của Chiến tranh Triều Tiên. Trong suốt 2 tháng các thẩm phán tòa phúc thẩm hình thành ý kiến, Chiến tranh Triều Tiên tràn ngập các tờ báo.[118] Vào ngày 1 tháng 8 năm 1950, Tòa Phúc thẩm nhất trí giữ nguyên bản án theo đánh giá do Thẩm phán Learned Hand viết. Thẩm phán Hand đã xem xét phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, nhưng đánh giá đã áp dụng một cách tiếp cận cân bằng tương tự như American Communications Association v. Douds.[71][99][119] Trong bản đánh giá, Hand viết:

In each case they [the courts] must ask whether the gravity of the 'evil', discounted by its improbability, justifies such invasion of free speech as is necessary to avoid the danger.... The American Communist Party, of which the defendants are the controlling spirits, is a highly articulated, well contrived, far spread organization, numbering thousands of adherents, rigidly and ruthlessly disciplined, many of whom are infused with a passionate Utopian faith that is to redeem mankind.... The violent capture of all existing governments is one article of the creed of that faith [communism], which abjures the possibility of success by lawful means.[120]

Trong mỗi vụ án, họ [các tòa án] phải hỏi xem liệu tính nghiêm trọng của 'cái ác', trừ đi khả năng không thể xảy ra của nó, biện minh cho việc xâm phạm quyền tự do ngôn luận như vậy là cần thiết để tránh nguy hiểm hay không.... Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, trong đó có các bị cáo là những người đứng đầu, là một tổ chức có tính liên kết cao, trù tính tốt, lan rộng, lên đến hàng nghìn đảng viên, kỷ luật nghiêm khắc và tàn nhẫn, nhiều người trong số đó có niềm tin cuồng nhiệt không tưởng là giải cứu nhân loại.... Chiếm giữ tất cả các chính phủ hiện tại đều là một tín điều của đức tin đó [chủ nghĩa cộng sản], điều này bác bỏ khả năng thành công bằng các phương tiện hợp pháp.

Bản đánh giá đặc biệt đề cập đến những nguy cơ đương thời của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, trong đó nhấn mạnh đến cuộc Cuộc phong tỏa Berlin.[88]

Kháng cáo lên Tối cao Pháp viện

Chánh án Fred M. Vinson viết đánh giá trong Dennis v. United States.

Các bị cáo đã kháng cáo quyết định của Tòa Phúc thẩm Khu vực 2 lên Tối cao Pháp viện trong Dennis v. United States. Trong phiên phúc thẩm, các bị cáo đã được National Lawyers Guild và ACLU hỗ trợ.[118] Tối cao Pháp viện giới hạn việc xem xét trong các câu hỏi về tính hợp hiến của Đạo luật Smith và các hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn, không đưa ra phán quyết về các vấn đề công bằng, thành phần bồi thẩm đoàn hoặc nhân chứng cung cấp thông tin.[99]

Một quyết định với tỉ lệ 6–2 được ban hành vào ngày 4 tháng 6 năm 1951, giữ nguyên phán quyết của thẩm phán Hand. Chánh án Fred Vinson cho rằng Tu chính án thứ nhất không đòi hỏi chính phủ phải chờ "cho đến khi cuộc đảo chính sắp được thực hiện, kế hoạch đã được lên và tín hiệu được chờ" trước khi ngăn chặn âm mưu nổi loạn.[121] Vinson tán thành phương pháp cân bằng được sử dụng bởi thẩm phán Hand:[122][123]

Chief Judge Learned Hand ... interpreted the [clear and present danger] phrase as follows: 'In each case, [courts] must ask whether the gravity of the "evil", discounted by its improbability, justifies such invasion of free speech as is necessary to avoid the danger.' We adopt this statement of the rule. As articulated by Chief Judge Hand, it is as succinct and inclusive as any other we might devise at this time. It takes into consideration those factors which we deem relevant, and relates their significances. More we cannot expect from words.

Chánh án Learned Hand ... đã diễn giải cụm từ [nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu] như sau: 'Trong mỗi vụ án, [các tòa án] phải hỏi xem liệu tính nghiêm trọng của 'cái ác', trừ đi khả năng không thể xảy ra của nó, biện minh cho việc xâm phạm quyền tự do ngôn luận như vậy là cần thiết để tránh nguy hiểm hay không. ' Chúng tôi áp dụng tuyên bố quy tắc này. Như được nêu rõ bởi Chánh án Hand, điều này ngắn gọn và bao hàm như bất kỳ điều gì khác mà chúng tôi có thể đưa ra vào lúc này. Nó đã cân nhắc những yếu tố mà chúng tôi cho là có liên quan và có liên hệ với ý nghĩa của chúng. Nhiều hơn thì ta không thể mong đợi từ từ ngữ.

Vinson cũng giải quyết tranh cãi liệu Medina hướng dẫn bồi thẩm đoàn là đúng hay sai. Các bị cáo cho rằng tuyên bố của Medina rằng "theo quy định của pháp luật, có đủ nguy cơ về một tội ác thực chất mà Quốc hội có quyền ngăn chặn, để biện minh cho việc áp dụng quy chế theo Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp" là sai lầm, nhưng Vinson kết luận rằng các hướng dẫn là cách diễn giải thích hợp của Đạo luật Smith.[122]

Theo lời của một nhà sử học, Tối cao Pháp viện đã "chia rẽ một cách cay đắng" về các vấn đề của Tu chính án Thứ nhất nổi lên từ vụ Dennis.[124] Các thẩm phán Hugo Black và William O. Douglas không đồng tình với ý kiến đa số. Trong bản bất đồng chính kiến, Black viết "dư luận như bây giờ, rất ít người sẽ phản đối việc kết án những người đệ đơn Cộng sản này. Tuy nhiên, có hy vọng rằng, trong thời điểm bình tĩnh hơn, khi áp lực, đam mê và nỗi sợ hãi hiện tại giảm bớt, Tòa án hiện tại hoặc sau này sẽ khôi phục các quyền tự do của Tu chính án thứ nhất về vị trí ưu tiên cao thuộc về một xã hội tự do."[gc 14][122][125] Sau phán quyết Dennis, Tòa án sử dụng phép thử cân bằng cho các trường hợp tự do ngôn luận, và hiếm khi sử dụng phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu.[126]

Kháng cáo phán quyết khinh thường

One who reads this record will have difficulty in determining whether members of the bar conspired to drive a judge from the bench or whether the judge used the authority of the bench to whipsaw the lawyers, to taunt and tempt them, and to create for himself the role of the persecuted. I have reluctantly concluded that neither is blameless, that there is fault on each side, that we have here the spectacle of the bench and the bar using the courtroom for an unseemly demonstration of garrulous discussion and of ill will and hot tempers.
Người đọc hồ sơ này sẽ gặp khó khăn trong việc xác định xem các thành viên của hiệp hội luật sư âm mưu đuổi một thẩm phán hoặc liệu thẩm phán có sử dụng quyền hạn để tấn công các luật sư, chế nhạo và kích động họ, và tự tạo cho mình vai trò của người bị hại. Tôi đã miễn cưỡng kết luận rằng cả 2 bên đều đáng trách, rằng đều có lỗi ở mỗi bên, rằng chúng ta có ở đây cảnh tượng quan toà và hiệp hội sử dụng phòng xử án để thể hiện một cách không thích đáng về cuộc thảo luận dài dòng và không có ý chí và tính khí nóng nảy.

— Thẩm phán William O. Douglas, trong đánh giá bất đồng ý kiến về vụ Sacher v. United States[127]

Các luật sư bào chữa đã kháng cáo các bản án khinh thường đưa ra bởi Thẩm phán Medina theo Điều 42 Quy tắc tố tụng hình sự liên bang.[128] Các luật sư đưa ra nhiều vấn đề khi kháng cáo, bao gồm cả hành vi sai trái có chủ đích của thẩm phán, và tuyên bố rằng họ đã bị tước quyền xét xử theo đúng thủ tục vì không có phiên điều trần để đánh giá giá trị của cáo buộc khinh thường. Họ lập luận rằng các cáo buộc khinh thường ngăn cản các bị cáo CPUSA trong tương lai có được luật sư tư vấn, bởi vì các luật sư sợ bị tư pháp trả đũa.[129][130] Kháng cáo ban đầu lên Tòa Phúc thẩm Liên bang đã không thành công: Tòa án đã xem xét các hành động của Medina, và đảo ngược một số, nhưng vẫn khẳng định các bản án.[129][131]

Các luật sư sau đó đã kháng cáo lên Tối cao Pháp viện, nơi bác bỏ đơn kiến nghị ban đầu, nhưng sau đó đã xem xét lại và chấp nhận kháng cáo.[132] Tối cao Pháp viện đã giới hạn việc xem xét trong phạm vi câu hỏi, "liệu cáo buộc khinh thường, như và khi được chứng thực, là một điều mà thẩm phán buộc tội được cho phép theo Điều 42(a) để xác định và tự trừng phạt; hay đó là một điều bị xét xử và trừng phạt theo Điều 42(b) chỉ bởi một thẩm phán không phải là người buộc tội và chỉ sau khi thông báo, điều trần, và có cơ hội để bào chữa?".[129] Tối cao Pháp viện, theo một đánh giá bởi Robert Jackson, đã giữ nguyên các bản án khinh thường với số phiếu 5–3.[91] Đánh giá của Jackson khẳng định rằng "hình phạt bỏ qua một số thủ tục luôn luôn, và đúng ra, bị coi là không thiện cảm, và nếu được áp đặt vì đam mê hoặc sự nhỏ nhen, chắc chắn sẽ gây mất uy tín cho tòa án như hành vi mà nó phạt. Nhưng những lý do rất thực tế đã khiến mọi hệ thống luật trao quyền khinh thường cho một người chủ trì các thủ tục tố tụng tư pháp cũng là những lý do giải thích vì sao điều đó được giản lược."[133]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đạo luật Smith xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản http://www.citizensource.com/History/20thCen/Smith... http://caselaw.lp.findlaw.com/scripts/getcase.pl?c... http://law.justia.com/cases/federal/appellate-cour... http://supreme.justia.com/cases/federal/us/339/162... http://supreme.justia.com/cases/federal/us/341/494... http://supreme.justia.com/cases/federal/us/343/1/c... http://supreme.justia.com/cases/federal/us/354/298... http://supreme.justia.com/cases/federal/us/367/290... http://articles.latimes.com/1988-08-27/news/mn-888... http://www.leagle.com/xmlResult.aspx?xmldoc=194928...